Chuẩn bị và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần trong Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972

13:47 | 19/12/2022

(Bqp.vn) - Những ngày này cách đây 50 năm, ngày 18/12/1972, Quân đội Mỹ tiến hành cuộc tập kích đường không quy mô lớn chưa từng có vào Hà Nội và các địa phương miền Bắc nước ta (với tên gọi Chiến dịch Linebacker II) nhằm phá hủy tiềm lực kinh tế, quân sự của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam và đặc biệt là nhằm giành ưu thế cho Mỹ và ngụy quyền Sài Gòn trên bàn đàm phán kết thúc chiến tranh với ta tại Hội nghị Pari. Với việc sử dụng “con bài chiến lược” máy bay ném bom B-52, chính quyền Mỹ lúc đó hy vọng sẽ giúp họ phá vỡ thế bế tắc trong cuộc chiến tranh Việt Nam để có thể “rút lui trong danh dự”, qua đó cũng đe dọa cả phong trào đấu tranh chống đế quốc của nhân dân thế giới.

Cả thế giới lo lắng hướng về Hà Nội. Lo lắng vì đây là bước leo thang chiến tranh liều lĩnh và nham hiểm của địch tấn công vào “trái tim” của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lo lắng vì địch sử dụng máy bay B-52 tính năng hiện đại nhất thế giới lúc bấy giờ cùng nhiều loại máy bay chiến đấu khác tập kích ồ ạt, sức hủy diệt rất lớn với tuyên bố đó sẽ là “cuộc oanh tạc ác liệt chưa từng thấy tại Bắc Việt Nam”[1] hòng đưa miền Bắc trở về “thời kỳ đồ đá”. Lo lắng vì lực lượng phòng không của ta khi đó còn non trẻ, ít kinh nghiệm, vũ khí chiến đấu (máy bay, tên lửa, pháo phòng không…) số lượng không nhiều, đã tương đối lạc hậu lại chủ yếu phụ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài, trong khi chiến trường trải rộng toàn miền Bắc. Kẻ thù, một lần nữa, buộc ta phải đương đầu với chúng trong một cuộc chiến không cân sức. Vận mệnh đất nước và dân tộc ta, một lần nữa, đứng trước thử thách cực kỳ nghiêm trọng.

Nhưng với tinh thần quyết đánh và quyết thắng, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân và Quân đội ta tổ chức chiến đấu làm nên chiến thắng lẫy lừng, được dư luận gọi là Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, buộc kẻ thù phải chấp nhận thất bại, tuyên bố dừng cuộc tập kích và quay trở lại đàm phán, ký Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Nhân tố làm nên chiến thắng có nhiều, trong đó, sự chuẩn bị và phát huy nhân tố chính trị, tinh thần có ý nghĩa quyết định để quân và dân ta bước vào cuộc chiến đấu với tâm thế chủ động, niềm tin tất thắng, cho dù không thể tránh khỏi những mất mát, đau thương.

Trong cuộc chiến đấu này, đế quốc Mỹ là bên gây hấn, giành quyền chọn lựa vũ khí, mục tiêu, cách đánh, thời điểm phát động cuộc tấn công. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đương đầu với chúng bằng “vũ khí sở trường” là bản lĩnh chiến đấu kiên cường, trí thông minh và lòng dũng cảm; bằng một thế trận chiến tranh nhân dân, lực lượng toàn dân cùng một tinh thần chiến đấu vì đại nghĩa.

Thời gian càng lùi xa, nhìn lại sự kiện chúng ta càng thấy rõ nhân tố chính trị, tinh thần làm nên chiến thắng được soi rọi bởi lý tưởng cách mạng cao đẹp; được kết tinh từ truyền thống yêu nước, khát vọng độc lập, tự do, lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta. Đảng ta luôn thấm nhuần học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và quân đội, đặc biệt là nắm vững và vận dụng sáng tạo hệ thống quy luật của chiến tranh, phát huy cao độ sức mạnh chế độ xã hội mới ưu việt cũng như sức mạnh cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc; là biểu hiện sinh động của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Sức mạnh chính trị, tinh thần của quân và dân ta xuất phát từ tầm nhìn chiến lược, dự báo thiên tài, quyết tâm chính trị, đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trên cơ sở nắm vững quy luật của chiến tranh, theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình và tương quan lực lượng địch - ta trên chiến trường, những hành động leo thang chiến tranh của chính quyền Mỹ, ngay từ những năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến loại máy bay chiến lược B-52 của Mỹ và nhận định: “Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh phá Hà Nội… Phải dự kiến trước mọi tình huống càng sớm, càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ chuẩn bị”[2]; “Nhớ là trước khi thua ở chiến trường Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ sẽ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”[3]. Lời tiên tri đó của Bác càng được khẳng định qua quá trình đàm phán giữa ta và Mỹ tại Pari (từ năm 1968 đến 1973) khi phía Mỹ luôn tỏ thái độ tráo trở, lật lọng, thường xuyên viện cớ để thay đổi ý kiến, cản trở, làm gián đoạn tiến trình đàm phán đồng thời gia tăng hoạt động đánh phá miền Bắc, thậm chí còn “đi đêm” trong quan hệ quốc tế cùng không ít lần tung lời lẽ đe dọa sẽ sử dụng ưu thế vũ khí, “đánh bom dữ dội ở Hà Nội và Hải Phòng”[4], “thực hiện những biện pháp có hậu quả nghiêm trọng”[5] nhằm gây sức ép để ta phải nhượng bộ với chúng.

Thái độ, hành động và những lời lẽ hung hăng, ngạo mạn của kẻ xâm lược đã chạm đến tầng sâu nhất danh dự của dân tộc Việt Nam anh hùng. Cả nước bừng bừng khí thế chiến đấu, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Sông núi vang vọng lời hiệu triệu thiêng liêng của Bác Hồ: “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B-57, B-52 hay “bê” gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng”[6].

Hiểu rõ âm mưu và thủ đoạn của Mỹ, chúng ta đã tích cực chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng cho một cuộc chiến quyết định với kẻ thù. Công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao tinh thần cảnh giác, khơi dậy lòng yêu nước, căm thù giặc, khí phách anh hùng, quả cảm, sức sáng tạo của nhân dân và các lực lượng vũ trang được đẩy mạnh và triển khai có hiệu quả. Trước hết, tập trung giải quyết tốt những vấn đề tư tưởng đang nổi lên nhằm thống nhất nhận thức và hành động của cán bộ, đồng bào và chiến sĩ ta, đó là: Nhận thức đúng bản chất ngoan cố và hiếu chiến của Mỹ, không mơ hồ, ảo tưởng trước luận điệu tuyên truyền của kẻ thù rằng, chính quyền Mỹ “có thiện chí hòa bình”, “chiến tranh Việt Nam có thể sớm kết thúc”, “hòa bình đã ở trong tầm tay”… nhằm lừa bịp, đánh lạc hướng dư luận về thực tế tình hình cuộc chiến ở Việt Nam; khắc phục tâm lý hoang mang của một bộ phận nhân dân, lo sợ trước uy lực vũ khí của kẻ thù khi chúng sử dụng máy bay B-52 ném bom “rải thảm” Thủ đô. Có thể gọi đây là bước “chỉnh huấn về tư tưởng” rất quan trọng để toàn dân, toàn quân ta chủ động và vững tin bước vào cuộc chiến, không dao động trước mọi hành động phiêu lưu, tàn bạo của kẻ thù.

Không khí sục sôi chiến đấu bảo vệ miền Bắc lan tỏa toàn xã hội, nhiều phong trào thi đua xuất hiện trong các tầng lớp nhân dân, các lực lượng, đã nhanh chóng phát triển thành cao trào như: “Toàn dân tham gia bắn máy bay Mỹ”, “Toàn dân tham gia bắt giặc lái Mỹ”, công nhân thi đua “Tay búa tay súng”, nông dân thi đua “Tay cày tay súng”, bộ đội thi đua “Vạch nhiễu tìm thù”, “Tìm thù trong nhiễu”... Bộ đội tên lửa, không quân, ra-đa, pháo phòng không, lực lượng nào cũng khao khát lập công, muốn bắn rơi nhiều máy bay Mỹ. Từ đây, trí tuệ, bản lĩnh, năng lực sáng tạo của nhân dân và bộ đội được phát huy cao độ.

Cùng với tuyên truyền, giáo dục, chúng ta đã tích cực chuẩn bị vũ khí trang bị để đánh địch, đặc biệt là vũ khí phòng không, làm tốt công tác huấn luyện, xây dựng lực lượng, thế trận phòng không nhân dân trên toàn miền Bắc, đảm bảo không bị bất ngờ trong mọi tình huống, xét cả về mặt chiến lược và chiến thuật. Đây là yếu tố then chốt để xây dựng, củng cố niềm tin vào khả năng chiến đấu, giành thắng lợi của quân và dân ta.

Đảng và Chính phủ ta đã tích cực hóa các quan hệ quốc tế, tranh thủ tối đa sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc) về viện trợ vũ khí, trang thiết bị quân sự, cải tiến kỹ thuật và huấn luyện bộ đội. Với tinh thần “hiểu địch để đánh địch”, thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ “muốn bắt cọp phải vào tận hang”, bộ đội ta đã sớm đưa lực lượng vào sâu trong “tuyến lửa” Vĩnh Linh (Quảng Trị) trực tiếp đương đầu với “Pháo đài bay B-52” khi chúng vượt giới tuyến quân sự tạm thời ném bom miền Bắc để nghiên cứu, tìm cách đánh.

Tài liệu “Cách đánh B-52 của Bộ đội Tên lửa” (thường gọi là “Cẩm nang bìa đỏ”) ra đời là sự kết tinh công sức, trí tuệ và cả máu xương của bộ đội ta, không những kịp thời phục vụ trực tiếp cho huấn luyện, chiến đấu mà còn củng cố vững chắc niềm tin vào vũ khí trang bị, cách đánh của Quân đội ta trong chiến dịch phòng không 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972 bảo vệ Thủ đô. Hàng loạt sáng kiến về bố trí trận địa và cơ động tên lửa; ngụy trang, nghi trang; chống nhiễu điện tử; phương án bắn và phương pháp bắn B-52 của tên lửa và pháo phòng không; cải tiến nội dung kỹ thuật của các loại khí tài ra-đa, tên lửa… đã hình thành và hoàn thiện trong quá trình chiến đấu. “Tương kế tựu kế”, chúng ta đã khiến không quân địch bất ngờ khi đánh trúng vào chỗ mạnh đồng thời cũng là chỗ yếu nhất của địch. Máy bay B-52 với phương tiện tác chiến điện tử hiện đại nhất, tưởng chừng như “bất khả xâm phạm” lại bị quân ta phát hiện và bắn rơi bằng những vũ khí, phương tiện không mấy hiện đại nhưng với cách thức sử dụng sáng tạo và hiệu quả nhất.

Trước khi “Chiến dịch Linebacker II” của giặc bắt đầu, thế trận phòng không nhân dân của ta đã được thiết lập hoàn chỉnh trên toàn miền Bắc. Đó là một thế trận có sự kết hợp giữa các loại vũ khí hiện đại và thô sơ; giữa chiến đấu với cơ động, nghi binh tài tình, biến hóa khôn lường; sẵn sàng đánh địch cả ban ngày lẫn ban đêm, đánh địch ở các độ cao và từ bất cứ hướng nào chúng đến; lấy tên lửa, máy bay làm lực lượng chủ yếu tiêu diệt B-52 địch trong khi các loại vũ khí phòng không khác phối hợp tạo thành lưới lửa nhiều tầng, nhiều lớp phòng thủ có chiều sâu, đón đánh địch từ xa đến gần, hình thành những “tọa độ lửa” tập trung tiêu diệt địch, tất cả đều thể hiện nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo của quân và dân ta. Rõ ràng, chúng ta không bất ngờ về hành động của kẻ thù, quân và dân ta đã sẵn sàng chiến đấu với một tinh thần chủ động, một tâm thế hiên ngang, kiên cường nhất. Tính khoa học của thế trận phòng không ấy đã được chứng minh bằng hiệu quả chiến đấu trên thực tế, bằng Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” vang dội, khiến chính phía Mỹ sau đó cũng phải thừa nhận: “Không lực Hoa Kỳ đã vấp phải một hệ thống phòng không có hiệu lực nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới”[7]. Còn các bạn Liên Xô thì tâm đắc: “Trao vũ khí tên lửa cho bộ đội Việt Nam là trao vũ khí cho những con người thông minh và có bàn tay vàng”.

Trong Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, các loại vũ khí chiến đấu chủ yếu của ta là tên lửa SAM-2, máy bay MIG-21, pháo phòng không 100 ly đã lần lượt lập công, bắn hạ nhiều máy bay B-52 của địch. Các loại pháo và súng máy phòng không tầm thấp cũng tiêu diệt nhiều loại máy bay chiến thuật khác của chúng. Thắng lợi đó đã cho thấy lòng dũng cảm, mưu trí vô song của con người Việt Nam trong chiến đấu. Mỗi chiến thắng, mỗi lần lập công, đặc biệt là bắn rơi tại chỗ máy bay B-52, đều mang đến sự khích lệ to lớn, trực tiếp cổ vũ, làm tăng thêm tinh thần chiến đấu, là những bước ngoặt quan trọng củng cố, phát huy nhân tố chính trị, tinh thần của quân và dân ta, từng bước chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng, để chúng ta càng đánh càng mạnh, thực hiện “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, lấy ưu thế về nghệ thuật quân sự của ta để khắc chế ưu thế về kỹ thuật quân sự của địch, lấy ưu thế tuyệt đối về sức mạnh chính trị, tinh thần của ta để đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù, giành thắng lợi cuối cùng.

Đồng thời với tổ chức đánh giặc, việc tổ chức sơ tán dân ra khỏi các đô thị đông người, đặc biệt là ở Hà Nội, Hải Phòng nhằm tránh tổn thất, bảo toàn lực lượng cho cuộc chiến lâu dài cũng được Trung ương và các địa phương tiến hành khẩn trương. Tại Hà Nội, khoảng 55 vạn người dân nội thành (bằng 85% tổng dân số lúc đó) đã được sơ tán trong trật tự về các tỉnh lân cận một cách nhanh chóng, an toàn trước khi quân địch ném bom “rải thảm” Thủ đô[8], các hoạt động học tập, công tác trong hoàn cảnh thời chiến vẫn tiếp tục được duy trì. Khi bom đạn địch gây tội ác dã man đối với đồng bào, quân và dân ta không hề nao núng, khuất phục mà trái lại, lòng căm thù giặc càng làm cho ý chí quyết tâm chiến đấu thêm mãnh liệt. Tính chất ưu việt của chế độ mới, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi, lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc đã gắn kết toàn dân, toàn quân ta thành một khối vững chắc, không gì lay chuyển, chia tách được.

Phát huy ưu thế của cuộc chiến tranh chính nghĩa, Đảng và Chính phủ ta đã phối hợp chặt chẽ mặt trận quân sự với mặt trận ngoại giao, đẩy mạnh tuyên truyền lập trường và thiện chí của ta, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của Mỹ không thật lòng muốn đất nước ta hòa bình, thống nhất, từ đó hình thành một mặt trận nhân dân thế giới rộng rãi ủng hộ Việt Nam, trong đó có cả nhân dân tiến bộ Mỹ, từng bước cô lập kẻ thù. Đồng thời, thực hiện hiệu quả công tác binh địch vận, nhất là với đội ngũ phi công Mỹ vừa bị bắt, chúng ta đã thức tỉnh lương tri của kẻ thù đến mức chính những phi công đó đã tiết lộ những bí mật về kỹ thuật của “Pháo đài bay B-52” để chúng ta tìm cách khắc chế được chúng với mong muốn sự bạo tàn của chính quyền Mỹ sớm kết thúc. Và, cũng chính những người phi công ấy, có người sau này đã trở thành sứ giả nối nhịp cầu hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, góp phần khép lại quá khứ đau thương, mở ra trang mới tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước.

Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” quyết định trực tiếp thắng lợi của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Hội nghị Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (tháng 1/1973), hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh “đánh cho Mỹ cút” tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (tháng 4/1975). Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy cao độ nhân tố chính trị, tinh thần, đoàn kết vượt lên mọi khó khăn, thử thách, biến mất mát, đau thương thành hành động, trút lửa hờn căm lên đầu quân cướp nước, buộc chúng phải cúi đầu khuất phục. Dân tộc ta một lần nữa đã nêu cao tinh thần thượng võ và truyền thống đánh giặc giữ nước vẻ vang, “thắng hung tàn bằng đại nghĩa”, viết tiếp trang sử hào hùng. “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” là một trong những chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

[1] - Hồi ký Richard Nixon, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2004, tr.903.

[2], [3] - Hồ Chí Minh, Biên niên những sự kiện và tư liệu về quân sự, Nxb QĐND, Hà Nội, 1990, tr.203.

[4] - Phạm Quang Minh, Quan hệ tam giác Việt Nam - Liên Xô - Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2015, tr.267.

[5] - Từ chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 đến thắng lợi của Hiệp định Pari về Việt Nam năm 1973, Nxb Lao Động, Hà Nội, 2013, tr.89.

[6] - Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11, Nxb CTQG, Hà Nội, 1989, tr.467.

[7] - Tổng cục Chính trị QĐNDVN, Sổ tay Báo cáo viên quân đội (2021 - 2025), Nxb QĐND, Hà Nội, 2021, tr.378.

[8] - Nhớ lại trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2012, tr.22.

File đính kèm:

Đại tá, PGS, TS Nguyễn Trường Sơn, Khoa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Lục quân

CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ QUỐC PHÒNG NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Địa chỉ: Số 7, Nguyễn Tri Phương, Ba Đình, Hà Nội
*Tel: +84-69.553215 * Email: info@mod.gov.vn
Website: bqp.vn, mod.gov.vn *
Tổng Biên tập: Đại tá Nguyễn Thanh Bình
Quyết định cho phép hoạt động: 3548/QÐ-BQP, ngày 25/9/2012
® Ghi rõ nguồn bqp.vn hoặc mod.gov.vn khi phát hành lại thông tin từ Cổng TTÐT BQP.