Web Content Viewer
Các Mác - Nhà cách mạng nhiệt thành, sáng tạo và giàu lòng nhân ái
(Bqp.vn) - Năm nay, cùng với nhân loại tiến bộ, Nhân dân Việt Nam long trọng Kỷ niệm lần thứ 200 ngày sinh của Các Mác (5/5/1818 - 5/5/2018) - nhà tư tưởng vĩ đại, người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới. Tên tuổi của C.Mác gắn liền với một học thuyết cách mạng đã làm thay đổi đời sống hiện thực của loài người, bắt đầu từ thế kỷ XX đến nay. Những phát hiện khoa học của C.Mác thực sự mang tính thời đại, trở thành vũ khí sắc bén cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, trở thành cương lĩnh, nguyên tắc hành động của các Đảng Cộng sản và công nhân trên toàn thế giới.
Các Mác (1818 - 1883) đã để lại cho chúng ta một di sản đồ sộ, đó là hệ thống lý luận khoa học, hoàn bị và cách mạng mà cho đến nay chưa một học thuyết nào, một nhà tư tưởng nào sánh kịp. Người đã mở ra cho nhân loại một tương lai tốt đẹp, giúp cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động ý thức được sứ mệnh lịch sử và xu hướng phát triển tất yếu của mình, biết được mục tiêu, phương pháp đấu tranh cải tạo xã hội, chống áp bức, bóc lột, bất công, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người cũng để lại một tấm gương về thân thế của một con người vượt lên trên tất cả mọi giới hạn lịch sử, chấp nhận gian khổ, hy sinh, không bao giờ ngần ngại xông pha trong bão táp, tự nguyện hiến dâng cuộc đời mình cho hạnh phúc của nhân loại, trở thành con người nhân loại.
65 năm cuộc đời của một con người vĩ đại, sớm dấn thân vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản và nhân dân lao động với gần 50 năm hoạt động cách mạng sôi nổi, nhưng cũng không ít những thiếu thốn, hiểm nguy, liên tục bị cản trở, truy đuổi, trục xuất từ nước này qua nước khác, có lúc còn bị bắt đưa ra truy tố trước tòa án nhưng C.Mác không hề nao núng, không bao giờ chùn bước. Tình cảm giai cấp công nhân, tình yêu thương con người, lý tưởng cách mạng cao đẹp, niềm đam mê khoa học, niềm tin chân lý và sự cổ vũ, đồng hành thủy chung của những người bạn, người yêu, người đồng chí tin cậy của C.Mác, như Ph.Ăng-ghen, Gien-ny… là những nhân tố tiếp sức cho C.Mác vươn tới những đỉnh cao khoa học, làm tròn sứ mệnh “khai đường mở lối” cho sự nghiệp giải phóng con người.
Ngay từ thời học sinh, sinh viên, với những ảnh hưởng tích cực của gia đình, của nhà trường, của các quan hệ xã hội tiến bộ đương thời, đã hình thành và phát triển xu hướng yêu tự do và nhân đạo, góp phần quan trọng định hướng giá trị cho C.Mác và phát triển, đưa C.Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng. Thấy C.Mác say mê nghiên cứu, ham học hỏi, cảm nhận được tài năng và tình cảm của con, người cha thân yêu của C. Mác có lần đã khích lệ: Con hãy cố gắng học đi, nếu cảm giác của cha mà không đánh lừa cha thì chính con sau này sẽ là người đem lại hạnh phúc cho nhân loại!
Những người thân của C.Mác, những người đã có điều kiện tiếp xúc, gần gũi với C.Mác, cộng sự cùng C.Mác đều có chung nhận xét rằng trong đời tư, C.Mác là một người con hiếu thảo, một người chồng tốt, một người cha tốt, một người bạn tốt. Ngay cả đối với kẻ thù tư tưởng của mình, C.Mác cũng tỏ ra là một con người vừa thẳng thắn, kiên quyết, vừa lịch thiệp, nhân ái, bao dung. Ông điềm tĩnh trước tất cả mọi hành vi điên cuồng công kích, bài bác, bôi nhọ, vu khống của họ và chỉ đáp lại khi thực sự cần thiết bằng những trình bày, phân tích xác đáng, khoa học chứ không hề thóa mạ, nặng lời với họ. Vậy nên, có thể vì giới hạn lập trường giai cấp mà họ không thể không tấn công vào học thuyết của C.Mác, nhưng cũng rất có thể từ trong sâu thẳm trái tim, họ đã bị C.Mác thuyết phục bằng những lập luận hết sức sắc sảo, khách quan, khoa học và bằng chính nhân cách vĩ đại của Người, như lời Ph.Ăng-ghen từng nhận định: mặc dù về mặt tư tưởng, lý luận, Mác “có thể có nhiều kẻ thù, nhưng chưa chắc đã có một kẻ thù riêng nào cả” [1].
Lịch sử vĩnh viễn gắn liền tên tuổi C.Mác với Ph.Ăng-ghen, học thuyết vĩ đại mang tên C.Mác nhưng tác giả của học thuyết ấy là C.Mác, Ph.Ăng-ghen và cả Gien-ny (vợ C.Mác). C.Mác và Ph.Ăng-ghen biết đến nhau bắt đầu từ sự tương đồng về tư tưởng, hai Ông đến với nhau với tư cách những người cùng chí hướng cao cả, mang cái tâm trong sáng cộng tác cùng nhau, phối hợp chặt chẽ, giúp đỡ nhau hết sức chân thành. Bộ Tư Bản - công trình vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác, được bắt đầu từ những dự cảm rất chính xác của hai ông về một xã hội đã thành hình và đang phát triển - xã hội tư bản chủ nghĩa, từ những gợi ý của Ph.Ăng-ghen khi ông viết “Phác thảo kinh tế”; được thực hiện cùng với quá trình Ph.Ăng-ghen đấu tranh phê phán, chống lại luận điệu công kích, xuyên tạc học thuyết C.Mác của mọi loại kẻ thù tư tưởng; được hoàn thành với sự thường xuyên trao đổi, góp ý của Ph.Ăng-ghen và sự biên tập trung thành, tận tụy của Ph.Ăng-ghen trong nhiều năm sau khi C.Mác qua đời; đặc biệt là gần 20 năm trời lao động của Ph.Ăng-ghen để lấy tiền đỡ đần cho sinh hoạt của gia đình C.Mác.
Về phần C.Mác, Ông luôn dành cho người bạn lớn nhất của mình một tình cảm và sự kính trọng đặc biệt. C.Mác từng nói: Sở dĩ Mác là Mác vì có Ăng-ghen là Ăng-ghen, sở dĩ Ăng-ghen là Ăng-ghen vì có Mác là Mác. Không có Ăng-ghen, có lẽ tôi không thành Mác! V.I. Lê-nin khẳng định: “Giai cấp vô sản châu Âu có thể tự hào rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà bác học kiêm chiến sĩ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất trong những truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người” [2]. Thật hiếm có một tình bạn và sự cộng tác nào như thế, hai Ông ý hợp tâm đầu trên nhiều lĩnh vực: tâm tư, tình cảm, lý tưởng, học thuyết… Lý luận C.Mác chứa đựng một phương pháp luận khoa học, một mục tiêu lý tưởng cách mạng đầy tính nhân văn là vì tác giả của nó có một bộ óc vĩ đại đồng thời có một trái tim vĩ đại, một tấm lòng nhân ái, chan chứa tình yêu thương đối với mọi người!
Với các em nhỏ, C.Mác luôn dành một tình thương yêu vô bờ bến. Tấm lòng Ông luôn rung động khi nghĩ tới các em, đến với các em, kể cả với những em bé lạ Ông gặp giữa đường, nhất là những đứa trẻ bơ vơ, đói khổ. Ông cảm thấy có một sự đồng cảm, một bầu không khí thật gần gũi, ấm cúng khi tiếp xúc với các em; nâng niu, chăm sóc chúng là một sự hạnh phúc đối với Ông. Trong gia đình, C.Mác là một người cha hiền từ, rộng lượng, gần gũi các con như những người bạn, cha và con có thể chơi hàng giờ cùng nhau. C.Mác không muốn và không bao giờ dùng quyền lực người cha để áp đặt bất cứ điều gì với các con. C.Mác chỉ yêu cầu con giúp đỡ khi cần, khuyên con nên hoặc không nên làm điều gì bằng những phân tích, gợi ý xác đáng nhằm gây sự thuyết phục ở nơi con.
Vợ của C.Mác, Gien-ny, hơn C.Mác 4 tuổi, khác nhau về thành phần xuất thân, điều kiện sống, địa vị xã hội, nhưng hai người hoàn toàn bị chinh phục và gắn bó với nhau bởi trí tuệ và tình yêu mãnh liệt. Họ là bạn đời của nhau theo đúng nghĩa của từ này. Vượt qua mọi thiên kiến đẳng cấp, hai người chính thức kết hôn (năm 1843) sau 7 năm đợi chờ, thử thách và từ đấy không bao giờ rời nhau trong suốt cuộc đời xông pha bão táp, trong những năm lưu vong, nghèo túng. Chính C.Mác đã cảm hóa Gien-ny và tình yêu của Gien-ny đối với C.Mác cũng như tình cảm của Gien-ny đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã làm cho Gien-ny trở thành người cộng sự, người thư ký đắc lực của C.Mác. Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ghi nhận Gien-ny là người nữ cộng sản đầu tiên. Bà đặt niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa cộng sản bởi con đường đó đã được chính Bà cùng với Mác, Ph. Ăng-ghen nghiên cứu, khám phá, kiểm nghiệm từ thực tiễn xã hội, luận chứng bằng những căn cứ hết sức khoa học, chân chính và chắc chắn.
C.Mác rất yêu thơ, làm thơ và coi thơ như tiếng nói tình cảm và khát vọng của lòng mình. Một trong những cách C.Mác chọn để thư giãn giữa hai đợt làm việc là đọc tiểu thuyết, dân ca và đọc thơ. Thơ của C.Mác phản ánh thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa, mang đậm “chất thép”, chất trữ tình nhưng cũng đầy lãng mạn. Qua thơ C.Mác, ta thấy toát lên hình ảnh một con người mang lý tưởng cách mạng mãnh liệt đồng thời là một tâm hồn đẹp đẽ, thanh cao, nhân ái, chan chứa yêu thương; ta cũng gặp ở đó một chàng trai trẻ có tình yêu thật sôi nổi, đằm thắm như tình yêu bao đôi lứa. Trong thơ, C.Mác dành nhiều tình cảm của mình cho những người đồng chí, người thân yêu, đặc biệt là với Gien-ny, người vợ rất mực yêu thương của C.Mác: “… Hai ta thề nguyện tháng ngày/ Yêu nhau, còn hẹn đổi thay cuộc đời” (Các Mác, Đêm xa cách).
C.Mác, Ph.Ăng-ghen, Gien-ny đều sinh ra và lớn lên ở nước Đức, một đất nước có bề dày truyền thống văn hóa vào hàng bậc nhất châu Âu, là quê hương của nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng lỗi lạc, đặc biệt là nền triết học cổ điển Đức với những tên tuổi nổi tiếng như Can-tơ, Hê-ghen, Phơ-bách… “Đứng trên vai những người khổng lồ” ấy, học thuyết của C.Mác kết tinh toàn bộ giá trị tư tưởng của nhân loại được kế thừa và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử đồng thời phản ánh thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn các nước châu Âu, những nơi C.Mác, Ph.Ăng-ghen, Gien-ny đã từng đến, từng sinh sống, từng tham gia hoạt động đấu tranh cách mạng cùng với công nhân và quần chúng lao động. Đó là một học thuyết khoa học và cách mạng đồng thời là một học thuyết tràn đầy tính nhân văn và nhân đạo, hướng đến cải tạo xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Ôn lại cuộc đời và sự nghiệp của C.Mác, chúng ta tự hào về người thầy đầu tiên và vĩ đại của giai cấp vô sản, Người có một trái tim vĩ đại, một tấm lòng nhân ái, chan chứa tình yêu thương. Người dạy chúng ta phương pháp khoa học trong nhận thức và cải tạo thế giới, khơi lên trong chúng ta một tâm hồn tươi sáng, lạc quan, một tình yêu tha thiết với quê hương, đất nước, yêu nhân loại, đặc biệt là người dân lao động. Người là biểu tượng cao đẹp nhất của hình ảnh nhà bác học, nhà hoạt động cách mạng sôi nổi, người chiến sĩ cộng sản quốc tế kiên cường và rất mực trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cổ vũ chúng ta vững bước tiến lên trên con đường đấu tranh xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa, vì sự phồn vinh và hạnh phúc của nhân loại.
[1]- C.Mác, Ph.Ăngghen Tuyển tập, tập V, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1983, tr.664.
[2]- V.I. Lênin Toàn tập, tập 2, bản tiếng Việt, Nxb Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1978, tr.12.
File đính kèm:
Nội dung cùng chuyên mục
- Thủ tướng Phạm Minh Chính đề xuất 3 trọng tâm hợp tác của ASEAN
- Thủ tướng Phạm Minh Chính bắt đầu các hoạt động tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 46
- Trọng thể Lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm Ngày Chiến thắng trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại
- Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình
- Tuyên bố chung về kết quả chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng Tây Ban Nha Pedro Sánchez