Web Content Viewer Actions

Những hiệu quả thiết thực từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

10:11 AM | 08/14/2025

(Bqp.vn) - Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, có sự vào cuộc tích cực của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị, xã hội, doanh nghiệp; được người dân đồng tình, hưởng ứng, tích cực tham gia. Các dự án, chính sách của chương trình bao phủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có tác động thúc đẩy phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Hội nghị toàn quốc Tổng kết Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026 - 2030, tháng 8/2025.

Hướng đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Tại Hội nghị toàn quốc Tổng kết Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025 (giai đoạn I) và định hướng nội dung giai đoạn 2026 - 2030 (giai đoạn II) diễn ra ngày 13/8, các báo cáo, ý kiến của các bộ, ngành, địa phương đều khẳng định, chương trình có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội sâu sắc, là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta đối với sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Ngay sau khi Nghị quyết số 120/2020/QH14, ngày 19/6/2020 phê duyệt chủ trương đầu tư  Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, của Quốc hội được ban hành, Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình MTQG đã chỉ đạo Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo) và các bộ, ngành tham mưu Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định đầu tư chương trình; đồng thời hoàn thành rà soát, xây dựng, ban hành, trình ban hành các quy định cơ chế chính sách, hướng dẫn tổ chức thực hiện dự án, tiểu dự án, nội dung thành phần.

Thực hiện Nghị quyết 108/2023/QH15 về giám sát tối cao của Quốc hội đối với 3 chương trình MTQG, Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết 111/2024/QH15 về một số cơ chế, chính sách đặc thù và Nghị quyết 142/2024/QH15 thống nhất điều chỉnh một số nội dung liên quan chủ trương đầu tư chương trình. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành ban hành văn bản (22 văn bản, gồm: 01 nghị định của Chính phủ, 04 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 17 văn bản của bộ, cơ quan Trung ương) quy định bổ sung, sửa đổi cơ chế, chính sách, hướng dẫn tổ chức thực hiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với nội dung còn thiếu hoặc chưa phù hợp, tăng cường phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường công khai, minh bạch, đầu tư và sử dụng nguồn vốn có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, kéo dài. Mặc dù triển khai chậm 1,5 năm do tác động nặng nề của đại dịch COVID-19 và còn chưa hết năm 2025, giai đoạn I chương trình đã cơ bản đạt và vượt 6/9 mục tiêu, nhóm mục tiêu đề ra, trong đó có những mục tiêu cốt lõi, có giá trị thực tiễn. Những kết quả đó đã đóng góp quan trọng, đáng kể vào việc hoàn thành trước tiến độ nhiều mục tiêu chung của cả nước trong thời gian qua, như: Giảm nghèo bền vững, tạo việc làm và tăng thu nhập của người dân; Chương trình đã hoàn thành vượt tiến độ hơn 200% đối với mục tiêu của Chương trình về xoá nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn khó khăn nhất, “lõi nghèo” của cả nước; một số chỉ tiêu mới đạt được kết quả bước đầu nhưng tạo tiền đề quan trọng cho giai đoạn tiếp theo, như: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; hỗ trợ khoán bảo vệ gần 1,48 triệu héc-ta rừng đặc dụng, rừng phòng hộ cho gần 323.800 hộ gia đình; đầu tư cải tạo hàng nghìn công trình giao thông, thủy lợi nhỏ, điện, các thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế…

Quang cảnh hội nghị.

Theo các nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, tổng mức vốn để thực hiện chương trình giai đoạn I là trên 137.000 tỷ đồng, đạt tỷ lệ giải ngân khá trong các chương trình MTQG nói chung, cao hơn gần 1,03 lần so với tổng vốn của cả 02 chương trình MTQG còn lại cùng giai đoạn. Đây là kết quả rất quan trọng, khẳng định được tinh thần trách nhiệm của các cấp, các ngành đã dám nghĩ, dám làm, không ngại khó, tất cả vì đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Chương trình nhận được sự đồng thuận rất cao và tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là trong phát triển kinh tế. Tạo sự chuyển biến về nhận thức, thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” của đồng bào, nâng cao quyền năng kinh tế, xóa bỏ các định kiến, khuôn mẫu giới, trao cơ hội cho phụ nữ, trẻ em gái khẳng định vai trò trong gia đình và tham gia xây dựng, phát triển cộng đồng; tận dụng điều kiện tự nhiên để từng bước phát triển vùng trồng dược liệu quý, hỗ trợ phát triển theo chuỗi giá trị, khởi sự kinh doanh, khởi nghiệp từ dược liệu, nâng cao thu nhập người dân. Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh, nhất là các gương điển hình tiên tiến, mô hình hay, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, phát triển du lịch, góp phần thay đổi nhận thức, hành động và nâng cao dân trí của đồng bào. Đồng thời, chương trình đã góp phần thắt chặt niềm tin của đồng bào với Đảng, Nhà nước, tiếp tục củng cố, xây dựng những hạt nhân và hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia, xây dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.

Khẳng định vai trò quan trọng của Quân đội trong triển khai, thực hiện chương trình

Đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai, thực hiện Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Bộ Quốc phòng đã kịp thời ban hành các văn bản để các cơ quan, đơn vị trong toàn quân thực hiện các nhiệm vụ Thủ tướng Chính phủ giao. Ở cấp Bộ Quốc phòng và cấp đầu mối trực thuộc Bộ đã thành lập Ban Chỉ đạo, Tổ giúp việc thực hiện chương trình. Các đơn vị cơ sở (trực tiếp thực hiện dự án) đã thành lập Ban Quản lý dự án, thực hiện nhiệm vụ theo quy chế quản lý dự án; phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương trong tất cả các khâu từ lập kế hoạch, xây dựng dự án đến tổ chức triển khai thực hiện. Trong 5 năm qua, Quân đội đã hỗ trợ 383 mô hình, dự án phát triển chăn nuôi, trồng trọt với 36.654 hộ dân được thụ hưởng; tỷ lệ hộ gia đình người dân tộc thiểu số tham gia là 98%. Thực hiện chương trình “nâng bước em tới trường”, các đơn vị Quân đội đã hỗ trợ 21.165 em học sinh nghèo (nhận nuôi tại các đơn vị 1.600 em và hỗ trợ tại gia đình 19.565 em). Đồng thời, tổ chức thực hiện 537 lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc, 488 lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, phương pháp tuyên truyền. Biên soạn, in ấn, phát hành 48.668 tài liệu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số, các văn bản luật, một số vấn đề về thực thi pháp luật ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; 18.370 tài liệu phục vụ công tác tuyên truyền về chăm sóc sức khoẻ, văn hoá, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số; 48.668 tài liệu phục vụ bồi dưỡng kiến thức dân tộc; 06 chuyên đề giảng dạy, 09 chuyên đề tham khảo dành cho đối tượng 3, đối tượng 4 (bồi dưỡng kiến thức dân tộc). Xây dựng 427 phim phóng sự, phim tài liệu về văn hoá, phong tục tập quán của các dân tộc thiểu số, mối quan hệ của các dân tộc ở Việt Nam; 08 chuyên trang “Bộ đội gắn với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”… Phối hợp tổ chức gặp mặt, biểu dương 3.315 điển hình tiên tiến, già làng, trưởng thôn, bản, người có uy tín.

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu tham quan gian trưng bày các sản phẩm OCOP của Quân đội bên lề hội nghị.

Đánh giá tác động, hiệu quả đầu tư của chương trình, Bộ Quốc phòng khẳng định chương trình đã góp phần tích cực bố trí, sắp xếp ổn định dân cư tại chỗ, chống di dân tự do; xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ an ninh biên giới. Qua đó, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động truyền đạo trái pháp luật, chia rẽ, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo đồng bào tham gia hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước; xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Người dân trong vùng dự án có sự đồng thuận cao; tích cực tham gia dự án, cố gắng học tập kinh nghiệm trong trồng trọt và chăn nuôi, tích cực lao động sản xuất để cải thiện điều kiện sống, phấn đấu để thoát nghèo. Nhiều hộ gia đình đã vươn lên sản xuất giỏi, làm giàu chính đáng, đã tạo động lực thúc đẩy phát triển nền kinh tế nông nghiệp, xuất hiện nhiều nông dân dám nghĩ, dám làm, quyết tìm tòi đưa vào thử nghiệm và nhân rộng các loại cây, con mới, phá vỡ thế độc canh sản xuất truyền thống, góp phần đa dạng hóa sản xuất, phát triển các ngành nghề, dịch vụ mới trong kinh tế nông thôn. Các dự án, mô hình do Quân đội tổ chức nhận được sự đồng thuận cao của chính quyền địa phương, các tổ chức quần chúng và sự hưởng ứng nhiệt tình của người dân; từ đó xây dựng thế trận lòng dân vững chắc nơi các địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh.


Thủ tướng Phạm Minh Chính trò chuyện, trao đổi tại gian trưng bày các sản phẩm OCOP của Quân đội bên lề hội nghị.

Trên cơ sở những kết quả đạt được giai đoạn I chương trình, trong giai đoạn II, Bộ Quốc phòng xác định tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, thông tư hướng dẫn của các bộ, ngành về thực hiện chương trình; ban hành nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, trong đó xác định thực hiện Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030 là góp phần xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chỉ huy các cấp, chính quyền địa phương trong thực hiện các dự án của chương trình, huy động tối đa nguồn lực, lồng ghép các chương trình, dự án, huy động nguồn lực xã hội, mạnh thường quân, sức dân... tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện có hiệu quả chương trình. Tổ chức mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; bổ sung cán bộ là người dân tộc và đẩy mạnh việc học tiếng dân tộc; tận dụng tối đa số đội ngũ trí thức trẻ tình nguyện là người dân tộc thiểu số để giải quyết tình trạng thiếu cán bộ kỹ thuật của các đơn vị. Chỉ đạo cơ quan chuyên môn xây dựng kế hoạch đi kiểm tra, đánh giá kết quả tổ chức thực hiện chương trình và tình hình triển khai thực hiện nhiệm vụ; kịp thời chấn chỉnh, rút kinh nghiệm, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chương trình.

Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

Mặc dù đã những kết quả quan trọng, song cũng phải thẳng thắn nhìn nhận trong giai đoạn I chương trình vẫn còn 3/9 nhóm mục tiêu chưa đạt kế hoạch, gồm: Cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở các xã, thôn đặc biệt khó khăn; số xã, thôn ra khỏi địa bàn đặc biệt khó khăn; công tác định canh, định cư, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào. Ngoài ra, một số vấn đề còn tồn tại, như: Nguy cơ tái nghèo cao và mức sống chưa bền vững, nhất là ở những vùng có nguy cơ cao về thiên tai; dịch vụ chưa phát triển, vẫn còn tình trạng đồng bào có tâm lý trông chờ, ỷ lại. Quá trình ban hành một số văn bản hướng dẫn, quy định về thực hiện cơ chế, chính sách ở cấp Trung ương còn kéo dài gây ra những khó khăn nhất định cho thực hiện chương trình. Một số địa phương còn lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện; đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp triển khai thực hiện ở cấp cơ sở còn thiếu và yếu (chủ yếu là kiêm nhiệm); một số công chức, lãnh đạo có tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm.

Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu kết luận hội nghị.

Phát biểu kết luận Hội nghị toàn quốc Tổng kết Chương trình MTQG 1719 giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026 - 2030, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh yêu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, đặc biệt là tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu. Thủ tướng Phạm Minh Chính định hướng bố trí khoảng 160.000 tỷ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn II.

Cơ bản đồng tình với các báo cáo và ý kiến tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính khái quát 8 mặt được trong triển khai chương trình thời gian qua: Chủ trương đúng và trúng; ý Đảng hợp lòng dân; chính sách đi đôi với ngân sách; quyết sách đi đôi với tuyên truyền, vận động; Nhân dân đồng tình, doanh nghiệp ủng hộ, Quân đội, Công an vào cuộc tích cực, hiệu quả; tiếp cận giáo dục, y tế, văn hóa bình đẳng hơn; phát triển bao trùm, toàn diện và bền vững hơn; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được nâng cao. Việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của của cả hệ thống chính trị, của các cấp, các ngành... mà còn là tình cảm sâu sắc, là mệnh lệnh từ trái tim, mang tính nhân văn cao cả, khẳng định “tình dân tộc, nghĩa đồng bào”, “không có ai bị bỏ lại phía sau”; do đó, khó mấy cũng phải làm, càng áp lực càng nỗ lực và đã làm thì phải có hiệu quả cụ thể, cân, đong, đo, đếm được.

Thay mặt Tổng Bí thư Tô Lâm, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính biểu dương những đóng góp, ghi nhận những kết quả đã đạt được trong giai đoạn I chương trình của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, các địa phương; đồng thời, chỉ rõ, vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần thẳng thắn nhìn nhận, như: Chương trình còn manh mún, chia cắt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; phân cấp, phân quyền chưa triệt để; thủ tục hành chính còn rườm rà làm chi phí tuân thủ tăng lên; tính tự lực, tự cường của một bộ phận đồng bào chưa cao, nguy cơ tái nghèo cao; lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là của người đứng đầu một số địa phương, đơn vị, cơ quan chưa thực sự tập trung, gương mẫu.

Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh một số bài học kinh nghiệm quan trọng: Quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động quyết liệt, đầu tư có trọng tâm trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó, ra việc đó; sự vào cuộc, phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong hệ thống chính trị phải đồng bộ, chặt chẽ, nhất quán, hiệu quả, nhất là người đứng đầu; tổ chức thực hiện phải luôn bám sát thực tiễn, luôn luôn đổi mới tư duy, cách tiếp cận và hành động phải quyết liệt; tạo xu thế, phong trào của đồng bào trong quyết tâm xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời, cửa biển của mình.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chụp ảnh chung với các đại biểu tại gian trưng bày các sản phẩm OCOP của Quân đội bên lề hội nghị.

Thời gian tới, trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, Thủ tướng Phạm Minh Chính lưu ý mục tiêu tổng quát là phải tích cực hơn nữa, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư Tô Lâm để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, năm sau phải cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước; tạo được phong trào, xu thế của người dân tự lực, tự cường thoát nghèo, làm giàu.

Về các mục tiêu cụ thể, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu các cơ quan tính toán thêm nhưng định hướng là phải bảo đảm tiếp cận bình đẳng về giáo dục, y tế, văn hóa, tiếp cận các nguồn lực của đất nước; tạo ra nhiều việc làm, sinh kế cho người dân; các mục tiêu phải thiết thực, cụ thể, khả thi và dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra, giám sát, đánh giá và với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển đất nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính nêu rõ 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức, xác định đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển, không những là trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải làm bằng cả tình cảm, trái tim, tình dân tộc, nghĩa đồng bào, sự chia sẻ, tính nhân văn cao cả, quyết tâm cao nhất, “nghĩ thật, nói thật, làm thật, hiệu quả thật, nhân dân được thụ hưởng thật”.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tổ chức thực hiện đồng bộ của cả hệ thống chính trị, cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Duy trì độc lập chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, bảo đảm bình đẳng nhưng đặc biệt chú ý các dân tộc dễ bị tổn thương.

Thứ ba, cân đối, bố trí nguồn lực ưu tiên cho chương trình trong 5 năm tới, dự kiến tăng khoảng 10 - 15% ngân sách (khoảng 150.000 - 160.000 tỷ đồng, so với 137 tỷ đồng của nhiệm kỳ này); huy động nguồn lực Trung ương, địa phương và các nguồn lực hợp pháp khác; Trung ương bố trí nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, giao địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm. Nguồn lực sẽ tập trung cho một số nhiệm vụ: Tạo việc làm, sinh kế cho người dân; bảo đảm tiếp cận bình đẳng y tế, văn hóa, giáo dục, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng, kiên cố hóa trường học, trong đó có trường học cho 248 xã biên giới; phát triển hạ tầng giao thông, viễn thông, điện, nước, bảo đảm tính bền vững trong phát triển.

Thứ tư, có cơ chế, chính sách phát triển, tăng cường liên kết giữa các dân tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với cộng đồng người Kinh; hình thành, liên kết các hợp tác xã, các doanh nghiệp, phát triển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, phát triển doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp lớn; chú trọng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Thứ năm, xây dựng, đầu tư các dự án ứng phó biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai (Bộ Nông nghiệp và Môi trường chủ trì); xây dựng chương trình an sinh xã hội thiết thực, cụ thể, bám sát tình hình thực tế. Tiếp tục triển khai chương trình 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại Đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ sáu, gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc; phát huy uy tín, vai trò tiên phong của già làng, trưởng bản, chức sắc tôn giáo, người có uy tín. Đầu tư ngân sách cho các nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao.

Thứ bảy, có chính sách ưu tiên, đầu tư thực hiện các nghị quyết “bộ tứ trụ cột” của Bộ Chính trị (về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng và thực thi pháp luật; hội nhập quốc tế) và các nghị quyết sắp được Bộ Chính trị ban hành về giáo dục, y tế.

Thứ tám, giữ gìn, bảo tồn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, tiếng nói, chữ viết của các dân tộc, góp phần phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí, biến văn hóa thành nguồn lực, di sản thành tài sản, đồng bào được hưởng thụ văn hóa nhiều hơn.

Thứ chín, xây dựng gói tín dụng ưu tiên cho việc xóa đói giảm nghèo bền vững và làm giàu, có chính sách tài khóa ưu tiên về tiếp cận đất đai, thuế, phí, lệ phí.

Thứ mười, thiết kế công cụ đo lường để giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ ngành và vào cuộc của các địa phương.

Nhấn mạnh với đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi còn nhiều khó khăn thì phải có cơ chế, chính ưu tiên, hoàn thiện thể chế, bố trí nguồn lực tương xứng; tư tưởng phải thông, quyết tâm phải cao, nỗ lực phải lớn, hành động phải quyết liệt, bám sát thực tiễn, đổi mới tư duy, có cách tiếp cận phù hợp, linh hoạt, hiệu quả, Thủ tướng Phạm Minh Chính tin tưởng giai đoạn II chương trình sẽ được làm tốt hơn, đạt mục tiêu là đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào vùng dân tộc thiểu số và miền núi sẽ năm sau tốt hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển nhanh, bền vững, bao trùm, toàn diện của đất nước.

Nguyễn Bằng

Attachment :

Other news

Web Content Viewer Actions

Web Content Viewer Actions

Web Content Viewer Actions